Sự phân chia các thời kỳ của trẻ em là một thực tế khách quan, nhưng ranh giới giữa các thời kỳ không rõ ràng và sự khác biệt đối với từng trẻ, thời kỳ trước chuẩn bị cho thời kỳ sau.
Cách chia đều dựa vào những đặc điểm cơ bản về sinh học của trẻ, nhưng cách tên gọi mỗi thời kỳ cũng như phân đoạn thời gian cũng khác nhau tùy trường phái.
Nói chung, từ khi thụ thai đến khi trưởng thành (18 tuổi), trẻ em trải qua 6 thời kỳ phát triển: Thời kỳ trong tử cung; Thời kỳ sơ sinh; Thời kỳ nhũ nhi; Thời kỳ răng sữa; Thời kỳ thiếu niên; Thời kỳ dậy thì. Các thời kỳ có đặc điểm phát triển và nhu cầu nuôi dưỡng khác nhau.
Thời kỳ trong tử cung
Là từ lúc thụ thai đến khi trẻ chào đời, trung bình là 280 đến 290 ngày ( thường gọi 9 tháng 10 ngày), tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng. Để trẻ khỏe mạnh thông minh thì mẹ không được mắc bệnh và cần tăng 10 -12 kg trong suốt thời gian mang thai. Như vậy, khi trẻ sinh ra cân nặng trung bình là 3000gr (2500 -3500gr), dài trung bình 50cm (48 -52cm) và không có dị tật bẩm sinh. Muốn vậy, các bà mẹ nên ăn uống hợp lý và khoa học trong giai đoạn này.
Chế độ dinh dưỡng cho bà mẹ trong giai đoạn này cần như sau:
1. Mẹ nên ăn 3 -5 bữa trong một ngày, ăn đủ 4 nhóm thức ăn. Không kiêng cữ một loại thực phẩm nào.
2. Từ tháng thứ 6 trở đi nên ăn thêm một bữa hoặc ăn thêm một bát cơm trong một bữa.
3. Nên ăn nhiều thực phẩm có chất đạm tốt như thịt, cá, trứng, sữa ( 300ml/ngày, sữa dành cho bà mẹ mang thai là hợp lý nhất)
4. Uống nhiều nước và ăn nhiều rau xanh tránh táo bón và cung cấp vitamin cho bào thai.
Thời kỳ sơ sinh: từ lúc sinh ra tới khi trẻ được 1 tháng tuổi (28-30 ngày).
Đặc điểm:
1. Cân nặng: Trẻ bình thường, mỗi ngày trung bình trẻ tăng 30-40gram, tháng đầu trẻ tăng khoảng 800-1200gr. Trung bình khi 1 tháng trẻ nặng khoảng 4500gr.
2. Chiều cao: tăng khoảng 4-5 cm( lúc 1 tháng trẻ cao từ 53 - 55 cm)
3. Hệ tiêu hóa: Niêm mạc đường tiêu hóa chưa hoàn thiện. Chưa có men tiêu bột. Thức ăn duy nhất của trẻ là sữa mẹ hoặc sữa thay thế. Nên cho trẻ bú mẹ sớm nhất có thể.
Cách nuôi:
Trẻ có sữa mẹ: Nuôi con bằng sữa mẹ là phương pháp tối ưu cho sự phát triển của trẻ, vì sữa mẹ là chất dinh dưỡng duy nhất thỏa mãn nhu cầu phát triển và phù hợp với sinh lý của cơ thể trẻ.
Cách cho bú:
1. Bú mẹ ngay sau khi sinh ( 30 phút - 1 giờ ) để tận dụng nguồn sữa non và các chất kháng khuẩn.
2. Bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu.
3. Một lần bú cho trẻ bú hết một bên bầu vú, để trẻ nhận được cả sữa cuối, lần sau sẽ cho bú bên kia.
Trẻ không có sữa mẹ: là những trẻ không có mẹ ( con nuôi, mồ côi, mẹ bị bệnh nặng ) hoặc trẻ bị bệnh nặng không thể bú mẹ hoặc vì một lý do nào đấy mà trẻ không có sữa mẹ. Vì nuôi con bằng sữa công thức: dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn, dễ bị suy dinh dưỡng, béo phì, dị ứng sữa bò, ngăn cách tình cảm mẹ con, ....
Cách cho bú:
1. Cách 1: Sữa mẹ vắt ra ly cho trẻ uống bằng đổ thìa hoặc bú bình.
2. Cách 2: Sữa công thức (sữa bột hộp)
Với trẻ sơ sinh đủ tháng (cân nặng lúc sinh lớn hơn 2500g): Dùng sữa công thức I (XO 1, Nan 1, Similac...), pha đúng theo hướng dẫn của từng loại sữa công thức.
Số lượng: 200-650ml/ ngày chia làm 7-8 bữa
Với trẻ sơ sinh non tháng, nhẹ cân (cân nặng lúc sinh dưới 2500kg): Cho trẻ uống sữa đặc biệt như: Similac neosure, Enfalac premature… cách pha theo hướng dẫn từng loại sữa.
Số lượng: 200-800ml/ngày, chia làm 8-12 bữa
Sau mỗi bữa bú có thể cho uống thêm 5 - 10ml nước đun sôi để nguội.
Theo dõi cân nặng của trẻ thường xuyên để điều chỉnh số lượng sữa
Tuyệt đối không dùng sữa đặc có đường nuôi dưỡng trong giai đoạn này.
Thời kỳ nhũ nhi: là giai đoạn từ 2 tháng đến 12 tháng tuổi.
Sự phát triển:
1. Cân nặng: Trung bình, 3 tháng trẻ nặng gấp đôi lúc sinh ( khoảng 6kg) và đến tháng thứ 12 trẻ nặng gấp 3 ( trung bình từ 9 kg – 10kg)
2. Chiều cao: mỗi tháng tăng 2 cm. Đến 12 tháng trẻ cao gấp rưỡi lúc sinh ( trung bình trẻ cao từ 74cm – 76cm)
3. Vòng đầu tăng khoảng 44cm. Tổ chức não trưởng thành bằng 75% so với người lớn ( 900gr)
4. Lớp mỡ dưới da phát triển nên trông trẻ bụ bẫm.
5. Hệ tiêu hóa: Hoàn thiện dần và khi 4 tháng bắt đầu có khả năng tiêu hoá được tinh bột và các thực phẩm khác ngoài sữa.
Thời kỳ này bé dễ mắc các bệnh về dinh dưỡng, tiêu hóa (suy dinh dưỡng, còi xương, tiêu chảy cấp...) và các bệnh nhiễm trùng (viêm phổi, viêm màng não mủ...).
Dinh dưỡng:
1. Từ 2 tháng đến 4 tháng: chỉ cho trẻ bú mẹ hoặc bú bình (giống như giai đoạn sơ sinh)
2. Khi trẻ được 4 tháng tuổi, với trẻ bú mẹ thì: nếu trẻ tăng dưới 500gr trong một tháng thì phải cho trẻ tập ăn dặm (bột), nếu trẻ tăng trên 500gr trong một tháng thì vẫn tiếp tục cho bú mẹ đến 6 tháng.
3. Tiếp tục bú mẹ theo nhu cầu của trẻ, bú càng nhiều càng tốt.
4. Khi bé được 4 – 6 tháng : Tập ăn dặm 1-2 bữa bột loãng 5%/ngày: Tập ăn từ ít (1 - 2 thìa bột) đến nhiều (1/3 - 1/2 bát - 1 bát/ ngày, khoảng 200 ml); số lượng thực phẩm cho 1 bát bột 5%:
Nước 200ml,
Bột gạo tẻ 10g,
Bột thịt (lợn, gà,bò) 10g hay 1/2 lòng đỏ trứng gà,
Rau lá 5g,
Dầu (mỡ) 2,5-5 ml.
Ngay từ tuổi này trẻ cũng đã ăn được xác (cái) thức ăn, nếu chỉ cho trẻ ăn nước thì sẽ bị thiếu chất dinh dưỡng ( sắt và Protein....). Không nên cho muối, đường, bột ngọt vào bột của trẻ.
Từ 7 tháng trở đi, cho trẻ ăn từ 2-3 bữa bột 10%:
Nước 200ml
Bột gạo tẻ 20g
Thịt, cá... 20-25g
Rau lá 10-15g
Dầu (mỡ) 5-10 ml
Tiếp tục bú mẹ hoặc ăn sữa công thức, ăn hoa quả, sữa chua.
Bú mẹ kéo dài đến 2 tuổi.
Giai đoạn răng sữa: là giai đoạn từ lúc 1 tuổi tới khi bé được 6 tuổi ( giai đoạn nhà trẻ và mẫu giáo)
Sự phát triển: tốc độ lớn châm hơn giai đoạn trước.
1. Cân nặng : Mỗi tháng tăng từ 100gr – 200gram, 4 tuổi nặng gấp 5 lúc sinh , đến 6 tuổi cân năng trung bình khoảng 20 kg.
2. Chiều cao: Mỗi tháng tăng từ 1cm – 1,5cm, 4 tuổi cao gấp đôi lúc sinh , đến 6 tuổi trẻ cao khoảng 115 cm.
3. Vòng đầu bằng người lớn (55cm), tổ chức não trưởng thành bằng 100% người lớn.
4. Hệ tiêu hóa: Đã hoàn thiện, trẻ đã mọc đủ 8 răng hàm
5. Tò mò, hoạt động nhiều, ham học hỏi, thích tự làm việc.
6. Có những hoạt động giao tiếp, ham chơi hơn ăn
Dinh dưỡng:
1. Dưới 2 tuổi: Tiếp tục bú me cho đến khi 2 tuổi và ăn 4 bữa bột hoặc cháo.
2. Lớn hơn 2 tuổi: ăn 3 bữa cùng gia đình với ưu tiên các thức ăn giàu chất dinh dưỡng, như 1 bát cơm với thịt, cá,... , rau xanh với 2 - 3 bữa phụ ( Sữa, yaourt, bánh, cháo, phở, bún)
3. Mỗi bữa 1 bát bột/ cháo ( dưới 2 tuổi) hoặc cơm ( trên 2 tuổi) phải đủ chất dinh dưỡng
4. Các bữa ăn cách nhau mỗi 3 giờ
5. Các thức ăn phải được nấu nhừ nhuyễn để dễ tiêu hóa
6. Các bữa ăn nên dùng bát riêng, mẹ nên khuyến khích trẻ ăn
7. Chỉ nên cho ăn cơm khi trẻ đủ 8 răng hàm ( thường là 24 tháng tuổi)
8. Trước khi ngủ nên cho trẻ ăn 1 bữa phụ ( sữa mẹ hay sữa công thức )
9. Hạn chế kẹo, bánh ngọt trước giờ ăn
10. Trẻ tự xúc ăn với sự hỗ trợ của cha, mẹ
11. Tiếp tục cho trẻ uống sữa công thức khoảng 300ml sữa/ ngày
Thời kỳ thiếu niên: là giai đoạn từ 7 tuổi đến 10 tuổi, lứa tuổi học đường
Sự phát triển: giai đoạn này trẻ tiếp thu nhanh, nhiều kiến thức, và hoạt động nhiều. Cơ bắp bắt đầu phát triển nhưng vẫn còn thon gầy. Dây chằng còn lỏng lẻo dễ bị gù vẹo nếu ngồi không đúng tư thế. Răng vĩnh viễn thay dần răng sữa.
1. Cân nặng: đến 10 tuổi trẻ nặng khoảng 30 kg
2. Chiều cao: đến 10 tuổi trẻ cao khoảng 135 cm
Dinh dưỡng:
1. Ngày ăn 3 bữa chính, mỗi bữa 2 bát cơm. Chú ý tới các loại thực phẩm giàu đạm động vật (trứng, sữa, thịt, cá…) và giàu sinh tố ( hoa quả, rau xanh..)
2. Mỗi ngày vẫn cần khoảng 300ml sữa.
3. Ăn thêm hoa quả, sữa chua.
Thời kỳ dậy thì: từ 15 - 18 tuổi
Sự phát triển: Trẻ vận động nhiều, quan sinh dục bắt đầu phát triển, mỡ dưới da và cơ bắp phát triển tạo hình dáng nam, nữ . Chiều cao cũng phát triển nhanh hơn trong những năm đầu cần tranh thủ thời kỳ này để tăng chiều cao của trẻ.
Dinh dưỡng:
1. Ăn cùng gia đình với ưu tiên các thực phẩm giàu dinh dưỡng
2. Nên uống sữa (sữa tươi, sữa bột nguyên kem, sữa đậu nành ...) 300 - 500ml/ ngày, nếu không uống sữa có thể phải bổ sung thuốc canxi, chú ý tới sự thiếu máu của trẻ để bổ sung viên sắt.
3. Hạn chế uống nước ngọt, có gaz.
4. Cần khuyến khích trẻ ăn đủ chất dinh dưỡng: đa dạng thực phẩm nhưng cũng cần hạn chế những thức ăn nhanh và thói quen vừa ăn vừa xem ti vi để tránh béo phì cho trẻ
5. Khuyến khích trẻ tập thể dục hàng ngày, ngủ đủ giấc
Kết luận
Sự thay đổi và phát triển qua các thời kỳ của trẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố di truyền và môi trường sống (dinh dưỡng, gia đình, văn hóa, giáo dục ....). Vì vậy ranh giới giữa các thời kỳ không cố định, có thể sớm hay muộn, tùy theo từng trẻ, nhưng mọi trẻ đều trải qua các thời kỳ phát triển trên. Mỗi một lứa tuổi có đặc điểm sinh lý và bệnh lý riêng, nếu áp dụng chế độ chăm sóc và nuôi dưỡng đúng, trẻ sẽ có một sức khoẻ tốt. Để xác định trẻ đã đủ chất dinh dưỡng hay chưa cách tốt nhất là theo dõi cân nặng và khám sức khỏe cho trẻ mỗi tháng để can thiệp kịp thời, tránh để hậu quả lâu dài.
Bs. Ts Nguyễn Trọng Hưng - Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia
Khoa Khám tư vấn dinh dưỡng số 2, 91 Nguyễn Ngọc Vũ, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội
Bình luận từ Facebook
Phản hồi